Điều trị bệnh Bạch cầu tủy mạn

ĐIU TRỊ

Hiện nay, ở các nước phát triển, thuốc imanitib (Gleevec, Glivec) và ghép tế bào gốc là các phương pháp chủ đạo trong điều trị bệnh bạch cầu tủy mạn. Đối với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, những phương pháp điều trị “cổ điển” vẫn cần thiết, có thể áp dụng rộng rãi.

Giai đoạn mạn tính

Hoá trị

Hóa trị thường quy chủ yếu sử dụng hai thuốc: hydroxyurea và busulfan theo đường uống.Busulfan là thuốc được sử dụng rất rộng rãi trong bệnh bạch cầu tủy mạn cho đến khi các thử nghiệm ngẫu nhiên chứng minh hydroxyurea có nhiều ưu điểm hơn busulfan. Khi sử dụng hydroxyurea, thời gian sống của bệnh nhân kéo dài hơn, thuốc ít độc tính với tủy hơn, tỷ lệ biến chứng và tử vong khi ghép tủy sau dùng hydroxyurea thấp hơn sau dùng busulfan. Do đó, busulfan được sử dụng ở hàng thứ hai trong hóa trị khi bệnh nhân không dung nạp với các thuốc khác.

Tham khảo thêm

Thuốc Lenvanix điều trị ung thư gan có hiệu quả không?

Thuốc Sorafenat điều trị ung thư gan bao lâu thì kháng thuốc?

a.Hydroxyurea (Hydréa)

– Thuốc có tác dụng giảm nhanh số lượng bạch cầu do đó cần phải theo dõi sát và kiểm tra số lượng bạch cầu thường xuyên.

– Liều ban đầu thông thường từ 1 đến 4g/ngày cho tới khi số lượng bạch cầu giảm xuống khoảng 10.000/mm3. Tiếp sau đó có thể dùng ở liều 0,5 đến 2g/ngày hoặc ngừng thuốc sao cho số lượng bạch cầu đạt từ 5.000 đến 20.000/mm3.

b.Busulfan

– Đây là thuốc thuộc nhóm alkyl hoá, có tác dụng ức chế sự tăng sinh các tế bào gốc. Thời gian đáp ứng của bệnh với thuốc kéo dài hơn so với hydroxyurea.

– Liều: 2-10mg/ngày, uống liên tục từ 7 đến 10 ngày. Khi bạch cầu hạ xuống còn 50% cần giảm còn 1/2 liều. Cần lưu ý là bạch cầu tiếp tục hạ trong 1-2 tuần sau khi ngừng thuốc.

Bảng 1: Bảng điều chỉnh liều thuốc theo số lượng bạch cầu máu ngoại vi

Số lượng bạch cẩu máu ngoại vi

Liều dùng

Hydroxyurea

BuaUng thưfan

 

> 80.000/mm3

3-4g/ngày (có thể

đến 6g/ngày)

8~10mg/ngày

 

20.000- 80.000/mm3

1,5-2 g/ngảy

4 – 6mg/ngày

10.000- 20.000/mm3

0,5 -1 g/ngày

2 – 4mg/ngày

≤10.000/mm3

Ngừng thuốc

Ngừng thuốc

Imanitib mesylat

Imanitib mesylat (Gleevec, Glivec) là thuốc ức chế đặc hiệu với tyrosin kinase BCR-ABL. Ban đầu, thuốc được thử nghiệm ở những bệnh nhân thất bại với điều trị interferon alpha cho tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về huyết học tớí 96%, đáp ứng hoàn toàn về di truyền học tế bào là 48%. Thử nghiệm lớn so sánh giữa imanitib với interferon alpha kết hợp Ara-C liều thấp cho 1.106 bệnh nhân mới được chẩn đoán bệnh bạch cầu tủy mạn cho thấy tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về di truyền học tế bào của nhóm imanitib mesylate là 76,2% và của nhóm interferon kết hợp Ara-C là 14,5%. Chất lượng sống của bệnh nhân được điều trị imanitib cũng cao hơn nhóm interferon kết hợp Ara-C. Đến nay, imanitib được coi là thuốc được lựa chọn đầu tiên cho bệnh nhân mới được chẩn đoán bệnh bạch cầu tủy mạn không thích hợp ghép tế bào gốc. Liều thường dùng là 400mg/ngày. Chỉ một số ít trường hợp không dung nạp được với imanitib mới cần chuyển sang interferon alpha.

Interferon alpha

– Interferon alpha có khả năng làm lui bệnh khá tốt không những trên lâm sàng và huyết học mà còn cả về di truyền học tế bào (làm giảm hoặc loại trừ được dòng tế bào mang nhiễm sắc thể Ph ở máu và tủy xương) mà các hoá trị không làm được. Do đó, thuốc có tác dụng giúp kéo dài thời gian sống một cách đáng kể. Tỷ lệ sống 5 năm là 57% ở bệnh nhân được điều trị bằng interferron alpha so vói 42% ỏ các bệnh nhân được hóa trị (p<0,00001). Kết hợp interferon alpha với cytosine arabinoside (Ara-C) làm tăng tỷ lệ đáp ứng về huyết học và di truyền học tế bào nhưng cũng tăng độc tính.

Hiện nay chưa có tài liệu nào nói đến việc dùng Interferon alpha cho trè em bị bệnh bạch cầu tủy mạn. Vì vậy, chúng tôi chỉ đề xuất cách dùng cho người >18 tuổi.

– Liều dùng: 3-9 triệu UI/ngày, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Nên bắt đầu với liều thấp 3 triệu Ul/ngày rồi tăng dần lên 9 triệu UI/ngày ở vài tuần sau. Thời gian điều trị tuỳ thuộc vào mức độ đáp ứng về huyết học và di truyền học tế bào.

– Sốt, chán ăn, đau cơ, đau khớp là các tác dụng phụ hay gặp khi dùng interferon alpha. Các tác dụng phụ này sẽ giảm khi dùng kèm thêm các thuốc giảm đau hạ sốt thông thường. Tuy vậy khi độc tính trên hệ thần kinh xuất hiện cần giảm liều hoặc ngừng thuốc.

X trị vào lách

-Một số bệnh nhân đã hóa trị lâu mà lách không thu nhỏ lại được nhiều hoặc chưa điều trị nhưng lách quá to gây đau hoặc chèn ép vào các cơ quan khác trong ổ bụng thì xạ trị vào lách được đặt ra.

-Ngoài tác dụng co nhỏ lách, phương pháp này còn làm giảm số lượng bạch cầu và tăng hồng cầu, do đó cải thiện được tình trạng bệnh trong một thời gian nhất định.

– Xạ trị với trường chiếu dựa trên kích thước của lách. Lách co nhỏ lại thì trường chiếu cũng phải thu lại. Trường hợp lách quá to, cần chia làm nhiều trường vào từng phần của lách. Liều lượng: 1Gy/ngày. Trong quá trình điều trị, cần kiểm tra thường xuyên số lượng bạch cầu, chỉ ngừng tia khi số lượng bạch cầu xuống đến 6000/mm3 hoặc không sờ thấy lách nữa.

X tr vào các ổbệnh ngoài tủy

Một số bệnh nhân có các khối u bạch cầu hạt ngoài tủy như ở xương, phần

mềm… cần được xạ trị tại chỗ kết hợp với hóa trị toàn thân.

Cắt lách

Biện pháp này hiện nay ít dùng bởi có nhiều biến chứng sau khi cắt lách.

Mặt khác, xạ trị vào lách đã thay thế cho phần lớn chỉ định cắt lách trước đây.

Cắt lách chỉ có chỉ đinh khi có nguy cơ nhồi máu hoặc vỡ lách.

Gạn bạch cầu (leukapheresis)

– Ở những trung tâm có điều kiện, có thể thực hiện phương pháp gạn bạch cầu như là một biện pháp ban đầu và tạm thời cho một số trường hợp sau:

+ Bệnh nhân có bạch cầu tăng rất cao gây các triệu chứng và dấu hiệu của rốỉ loạn về tuần hoàn ở phổi, não, mắt, tai, dương vật…

+ Các bệnh nhân đang có thai cần tránh các tác dụng sinh quái thai của thuốc hoá trị.

– Gạn bạch cầu còn có lợi ích giảm được liều hoá trị cần dùng và giảm acid uric do lượng bạch cầu lớn bị phân hủy sinh ra.

Điều trị hỗ trợ

a. Phòng chống tắc mạch

Khi có tăng tiểu cầu, cần phải lưu ý chống tắc mạch. Thuốc hay được dùng

là aspirin với liều từ l-l,5g/ngày, uống 2 ngày liền mỗi tuần. Thuốc chỉ có tác 

dụng chống tập kết tiểu cầu. Khi các thuốc hóa trị và interferon alpha không kiểm soát được tăng tiểu cầu, có thể gạn tiểu cầu (plateletpheresis).

b. Phòng bệnh thận do tăng acid uric

– Xét nghiệm acid uric máu cần được làm thường xuyên trước và trong khi điều trị. Khi điều trị số lượng bạch cầu bị tiêu hủy tăng lên dẫn đến tăng acid uric máu gây rối loạn chức năng thận và có thể suy thận.

– Đề phòng hiện tượng này, trong khi điểu trị cần dùng thêm allopurinol với liều ban đầu 400-600mg/ngày trong 3 ngày, sau đó dùng với liều 100mg/ngày trong 4 ngày nữa. Ngoài ra, cần truyền thêm dịch và kiềm hóa nước tiểu.

c.Bồi phụ máu (hoặc các sản phẩm từ máu), bi phụ nước, điều chỉnh điện giải, chống nhiễm trùng: khi cần thiết.

Giai đoạn tiến triển

Imatinib vẫn có tác dụng tốt trong giai đoạn này với tỷ lệ thoái lui hoàn toàn về huyết học đạt tối 40% và thoái lui hoàn toàn về di truyền học tế bào đạt 20%. Thông thường cần sử dụng liều cao hơn (600mg/ngày) so với điều trị giai đoạn mãn.

Một số nghiên cứu sử dụng phối hợp imatinib với hoá trị giúp ổn định bệnh thêm một thời gian nữa. Thực tế, người ta sử dụng imatinib làm cầu nối trong thời gian đợi tế bào gốc tạo máu dị gen.

Giai đoạn cấp

Điều trị theo dạng chuyển cấp của bệnh, nói chung, kết quả điều trị giai đoạn này còn thấp.

Giai đon cấp dng lymphô

Điều trị như cho các trường hợp bệnh bạch cầu lymphô cấp. Thời gian sống của bệnh nhân trung bình ở giai đoạn này từ 4 đến 6 tháng.

Giai đoạn cấp dạng tủy

Điều trị như bệnh bạch cầu tủy cấp, trong đó săn sóc hỗ trợ là chủ yếu. Tiên lượng chung của dạng này thường xấu.

Ghép tế bào gốc tạo máu

Ghép tế bào gốc tạo máu (từ tủy xương, máu ngoại vi, dây rốn) có thể tiến hành ở mọi giai đoạn bệnh nhưng kết quả cao nhất được thấy ở các bệnh nhân trong giai đoạn mạn tính, nhất là trong năm đầu. Hiện nay, người ta mới chỉ ghép tủy cho các bệnh nhân dưới 55 tuổi. Chỉ có không quá nửa số bệnh nhân bệnh bạch cầu tủy mạn thích hợp cho ghép tế bào gốc do có nhiều bệnh nhân tuổi cao hoặc có các bệnh kèm theo.

            Phương pháp được sử dụng nhiều là ghép tế bào gốc tạo máu dị gen và là

pháp duy nhất có ý nghĩa điều trị triệt căn trong bệnh bạch cầu tủy mạn. Ghép tế bào gốc tự thân còn đang trong nghiên cứu và chỉ có tác dụng kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân hơn là điều trị triệt để.

 Ghép tế bào gốc dị gen được tiến hành bằng cách sử dụng tế bào gốc của anh em hoặc những người khác trong gia đình hoặc của những người không phải họ hàng nhưng phù hợp HLA ghép cho bệnh nhân sau khi đã dùng hoá trị liều cao.

Tỷ lệ tử vong ngay sau khi ghép tủy khá cao (20-40%) chủ yếu do mảnh ghép chống vật chủ và do nhiễm trùng. Tuy vậy, sau khi ghép thành công, có tới 50-60% bệnh nhân vẫn không tái phát tại thời điểm 10 năm và tỷ lệ sống 15 năm là 43%.

Tham khảo thêm

Những điều bạn cần biết về bệnh yếu sinh lý nam

Điểm mặt những dấu hiệu nội tiết tố nữ kém

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *